Bài thơ Nam quốc sơn hà được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, gắn liền với danh tướng Lí Tương Khế (1019–1105) và chiến thắng nghĩa quân tại sông Như Nguyệt. Hiện nay, nhiều người vẫn lầm tưởng Lý Thường Kiệt là tác giả của bài thơ.
Bạn đang xem: Nam Quốc Sơn Hà Của Ai
“Nam quốc sơn hà” ra đời khi nào?
“Nam quốc sơn hà” là một bài thơ bảy chữ bằng chữ Hán, không rõ xuất xứ nhưng được một số tài liệu cho là của Lại Tương Kết. Theo đó, trong cuộc hội c̼h̼o̼n̼g̼ ̼l̼à̼i̼ ̼q̼u̼n̼ ̼T̼o̼n̼ T̼o̼n̼ lần thứ hai (1075-1077), Lý Thường Kiệt đã gửi bài thơ đến đền Trường, Trường, Trường, sông Trường. Yên Phong, Bắc Việt Nam. Ninh, Đại Việt để khích lệ tinh thần binh sĩ.

Lí Tượng Kết cử tri kỷ đọc thơ
Bài thơ “Nam quốc sơn hà” không có tựa đề. Nhan đề “Tuyển tập thơ văn Việt Nam” tập 2 (NXB Văn học, 1976) được lấy từ bốn chữ đầu của câu đầu bài thơ. Bài thơ này có nhiều dị bản, bản chữ Hán trong Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Nam quốc sơn hà nam là quê hương của Hoàng đế, tự nhiên là mệnh trời.
Trong Lĩnh Nam Chích Quái, mục “Sự tích hai vị thần ở Long Nhan và Như Nguyệt” có ghi:
Năm Thiên Phúc, vua Lê sai Thái Hãn, Đông Thái vương, Hầu Nhân Bảo, Tôn Tôn Hưng đánh Thái Cổ Việt. Hai phe đuổi kịp nhau ở sông Đồ Lộ. Vua Lee Tai Han đang ngủ và nhìn thấy hai vị thần xuất hiện trong giấc mơ của mình. Hai vị thần tâu với vua, đại ý như sau: “Anh em Trương Hống, Trương Hát, tướng của Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục). trong số các vị thần bị quỷ ̼b̼i̼n̼h̼ thống trị. Hiện nay, Nước ta, các anh chị em của Chúa đến yết kiến nhà vua để giúp nhà vua dẹp giặc cứu dân.”

Bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà”.
Vua Lee Tai Han tỉnh dậy và ngay lập tức đốt xác mình với sự giúp đỡ của Chúa. Đêm đó, tôi thấy một thủ lĩnh áo trắng và một thủ lĩnh áo đỏ từ phía bắc sông Như Nguyệt mà cùng nhau vào trại “khủng bố”. Quân Tống cả kinh, lúc này lớn tiếng ngâm thơ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư, hoàng thiên định ở Thiên tử. Khi Hà Bắc Lộ Lai xâm lược, Bạch đến lượt tiêu diệt Trúc Du.
Khi đoàn quân nghe thấy, họ quay lại nói e̼o̼ ̼dp̼ l̼e̼n̼ ̼n̼h̼a̼u̼ t̼a̼n̼ t̼a̼n̼. Vua Lee Tai Han về làm lễ và truy tặng hai vị thần, một là Din Man Tai Vung, lập đền thờ ở ngã ba sông Long Nan; Khước Mân Đại Vương thứ hai lập đền thờ ở ngã ba sông Nguyệt.
Xem thêm: Hướng Dẫn Ghost Live Trên Win 7 Hướng Dẫn Ghost Live Trên Hệ Điều Hành Win 7

Đại vương Lee Tai Han về ăn mừng (Ảnh minh họa)
Nguồn gốc của tác giả là không rõ
Vậy giả thiết rằng bài thơ được viết bởi Li Tuong Geet đến từ đâu? Trên báo Tổ Quốc, số 401 Trong bài viết “Lịch sử, Sự thật và Lịch sử” xuất bản tháng 1 năm 1988, Giáo sư Hà Văn Tấn viết: Không nhà sử học nào chứng minh được bài “Nam quốc sơn hà nam” là của Lý Tưởng. Được rồi. Không có ghi chép lịch sử về nó.
“Nam quốc sơn hà” là bài thơ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam và được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Tuy nhiên, với ít nhất 35 lần tái bản bộ sách và 8 lần xuất bản Thần tích, nguồn gốc của “Nam quốc sơn hà” vẫn còn là một dấu hỏi…
Cổ sử chỉ ghi rằng, vào một đêm t̼â̼n̼ c̼h̼o̼n̼g̼ ̼T̼o̼n̼g vùng sông Như Nguyệt, si̼ nghe thấy si̼ ngâm bài thơ ấy ở chùa Trương Hàng, Trương Hát. Có thể phỏng đoán Lai Tường Kết ngâm thơ dân gian. Đi xa hơn, ta có thể đoán được tác giả của bài thơ là Lý Thường Kiệt. Nhưng đó chỉ là phỏng đoán, làm sao biết chắc bài thơ đó là của Lại Tường Kết?”

Không thể nói chắc đó là thơ của Lí Tuấn Kết
Tất cả các tài liệu lịch sử Việt Nam, từ chính sử đến dã sử đều không nhắc đến tác giả bài thơ. Sử sách Đại Việt sử ký toàn thư chỉ chép rằng, vào một đêm, nhà Lý bỗng nghe thấy tướng quân Trung đọc to bài thơ này trong chùa. Trong khi đó, sách Lĩnh Nam Chích Quái khẳng định đã đọc bài thơ “Vô thần tại khí”. Theo Lĩnh Nam Chích Quái, bài thơ xuất hiện từ thời Lỗ Hoàn chống Tống, cũng được truyền tụng trên sông Như Nguyệt.
Vẻ huyền bí ấy đã khiến Nam quốc sơn hà trở thành bài thơ thần thánh của nhân dân. Một số nhà sử học hiện đại coi các nhà thơ là chuyên gia như Quang Việt hay Pháp Duẩn.
Trong đó, thiền sư Pháp Duẩn đã “hiến kế” từ khi vua Lỗ Tài Hán lập đời. Ngoài ra, nhiều tài liệu quan trọng đã được soạn thảo bởi thiền sư Pháp Duẩn vào thời điểm đó. Ông cũng là tác giả của nhiều bài thơ. Vì vậy có người cho rằng thiền sư Pháp Duẩn viết bài thơ này. Tuy nhiên, đây chỉ là suy đoán.